Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số

Đại hội Đại biểu các Dân tộc thiểu số tỉnh An Giang lần III năm 2019
Thực hiện Quyết định số 1062/QĐ-TTg ngày 22/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện, cấp tỉnh lần thứ III năm 2019 và Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020; Hướng dẫn số 01/HD-BCĐ ngày 14/01/2019 của Ban chỉ đạo Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam về việc hướng dẫn tổ chức Đại hội;

 

Thực hiện Quyết định số 1062/QĐ-TTg ngày 22/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số cấp huyện, cấp tỉnh lần thứ III năm 2019 và Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020; Hướng dẫn số 01/HD-BCĐ ngày 14/01/2019 của Ban chỉ đạo Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam về việc hướng dẫn tổ chức Đại hội;

Căn cứ Quyết định số 360/QĐ-UBND ngày 04/3/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc thành lập Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh An Giang lần III năm 2019, Ban Chỉ đạo tiến hành tổ chức Đại hội với chủ đề:

“CÁC DÂN TỘC ĐOÀN KẾT, PHÁT HUY NỘI LỰC, HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN”

 

Và hôm nay, Ban Chỉ đạo báo cáo trước Đại hội tình hình kết quả thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc giai đoạn 2014 - 2019 và định hướng đến năm 2024 với những nội dung cơ bản như sau:

 

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH DÂN TỘC VÀ VÙNG ĐỒNG BÀO

DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH AN GIANG

 

An Giang là một tỉnh miền Tây Nam bộ, thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, diện tích tự nhiên 353.676 ha, trong đó, có 279.996 ha đất sản xuất nông nghiệp; tỉnh nằm ở đầu nguồn sông Tiền và sông Hậu, thuận lợi về nguồn nước, đất đai được phù sa bồi đắp hàng năm nên có điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp, trong đó thế mạnh của tỉnh là sản xuất lúa, hoa màu và cá.

Là tỉnh vừa có đồng bằng, vừa có núi và có đường biên giới dài gần 100 km, giáp với 02 tỉnh Takeo và Kandal (thuộc Vương quốc Campuchia) nên có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh ở biên giới Tây Nam; có 02 cửa khẩu quốc tế là Tịnh Biên (huyện Tịnh Biên), Vĩnh Xương (thị xã Tân Châu) và 02 cửa khẩu quốc gia là Khánh Bình và Vĩnh Hội Đông (huyện An Phú).

An Giang có 11 đơn vị hành chính, gồm có 02 thành phố trực thuộc, 01 thị xã và 08 huyện với 156 xã, phường, thị trấn (119 xã, 21 phường, 16 thị trấn) và 888 khóm ấp; 38 xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số (theo Quyết định số 447/QĐ-UBDT ngày 19/9/2013 của Ủy ban Dân tộc).

Tỉnh có 18 xã đặc biệt khó khăn/119 xã[1], chiếm tỷ lệ 15,12%; 27 ấp đặc biệt khó khăn/888 ấp[2], chiếm tỷ lệ 3%; có 38 xã thuộc khu vực vùng dân tộc thiểu số và miền núi[3], chiếm tỷ lệ 31,9% và có 18 xã biên giới[4], chiếm tỷ lệ 15,12%.   

Dân số toàn tỉnh (năm 2018) là 2,164 triệu người với 543.764 hộ; có 119.219 người dân tộc thiểu số, với 28.481 hộ, chiếm 5,26% so dân số cả tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số, còn có 28 dân tộc thiểu số; có 03 dân tộc thiểu số có dân số khá đông là Khmer, Chăm và Hoa; trong đó, dân tộc Khmer 93.717 người (chiếm 4,2% so dân số cả tỉnh); dân tộc Chăm 15.327 người (chiếm 0,67% so dân số cả tỉnh); dân tộc Hoa 10.079 người (chiếm 0,38% so dân số cả tỉnh); còn lại là 25 dân tộc thiểu số khác (gồm Mường, Nùng, Tày, Thái, Ê Đê, Raglay, Xtiêng, Cơ Tu...) sinh sống rải rác trên địa bàn; mỗi dân tộc thiểu số ở An Giang đều có đặc điểm riêng.

Đồng bào dân tộc Khmer định cư lâu đời ở An Giang, phần lớn sống tập trung nhiều nhất ở huyện Tri Tôn và Tịnh Biên; có tập quán canh tác nông nghiệp vùng cao dựa vào tự nhiên, chăn nuôi gia đình, làm thuê theo mùa vụ; đồng bào Khmer thường sống tập trung theo từng phum, sóc liền kề chân núi thuộc vùng Bảy Núi, vùng đất giồng, gò cao; có quan hệ khá chặt chẽ với thân nhân, dòng tộc ngoài nước như Campuchia, Thái Lan...; đồng bào Khmer theo Phật giáo Nam tông, đời sống văn hoá tinh thần và các thiết chế cộng đồng gắn với nhà chùa, (toàn tỉnh có 66 chùa Khmer); lực lượng sư sãi có uy tín cao trong cộng đồng dân tộc Khmer, có vai trò điều hòa các mối quan hệ, tạo sự đoàn kết, gắn bó mọi người trong cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng phum, sóc ngày một tiến bộ. Hiện tại có 66 chùa Phật giáo Nam tông Khmer.

Dân tộc Chăm sống tập trung ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu; số còn lại sống rải rác ở các huyện Châu Phú, Châu Thành; theo đạo Hồi (Islam), sinh hoạt tôn giáo ở các thánh đường và tiểu thánh đường; phần lớn đồng bào Chăm sống bằng nghề mua bán nhỏ, chăn nuôi, dệt vải, thêu đan, chài lưới, đánh bắt thuỷ sản. Các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao, du lịch, hành hương, du học… được duy trì, phát triển, góp phần đẩy lùi nhiều hủ tục lạc hậu. Hiện tại An Giang có 12 thánh đường, 16 tiểu thánh đường và 01 Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo tỉnh.

Dân tộc Hoa sống xen kẻ với người Kinh ở các trung tâm đô thị; đa số theo đạo phật, tín ngưỡng dân gian; phần lớn là kinh doanh thương mại, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nên có đời sống vật chất ổn định và không ngừng phát triển. Quan hệ trong cộng đồng thể hiện nét đặc trưng về dòng tộc, họ (theo gia phả), đồng hương (theo ban, hội…). Tỉnh có 19 miếu; 03 Hội tương tế người Hoa ở thành phố Long Xuyên, Châu Đốc và thị xã Tân Châu, với nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ phong phú, đa dạng.

 

Phần thứ hai

TỔNG KẾT, ĐÁNH GIÁ THÀNH TỰU, KẾT QUẢ

THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC

GIAI ĐOẠN 2014-2019

 

I. CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA CẤP ỦY, CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP

Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về công tác dân tộc[5], như Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VI) về công tác ở vùng đồng bào Khơme, Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 8/11/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới, Chỉ thị 06/2004/CT-TTg ngày 18/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh đối với đồng bào Chăm trong tình hình mới; Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc. Tiếp theo, chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định, cùng các Bộ, ngành ban hành các thông tư hướng dẫn về chính sách dân tộc.

Thực hiện triển khai các văn bản của Trung ương, Tỉnh ủy đã ban hành các chỉ thị, nghị quyết, chương trình hành động[6], Ủy ban nhân dân tỉnh ra các quyết định, kế hoạch, đề án để thực hiện văn bản chỉ đạo của Trung ương; đồng thời còn ban hành nhiều chính sách chung kêu gọi đầu tư đối với các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống[7]

Công tác sơ kết, tổng kết, kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các chủ trương, nghị quyết của trung ương, của tỉnh về chính sách dân tộc luôn được cấp uỷ, chính quyền các cấp quan tâm thường xuyên, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, bất cập, điều chỉnh cơ chế, chính sách phù hợp với tình hình thực tế, đồng thời, đúc kết kinh nghiệm, phát hiện, nhân rộng các mô hình hay, cách làm tốt trong phát triển kinh tế - xã hội, tích cực đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh ở địa phương.

II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC, PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG, XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1. Kết quả thực hiện các chương trình, chính sách, dự án  đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Trong những năm qua, tỉnh đã tập trung bố trí nhiều nguồn lực để thực hiện chính sách dân tộc, việc lồng ghép, phối hợp sử dụng các nguồn lực triển khai khá đồng bộ hiệu quả, cụ thể như:

Thực hiện Chương trình 135 (từ năm 2015 - 2019), với kinh phí trên 120 tỷ đồng, đã xây dựng nhiều công trình duy tu bảo dưỡng, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo cán bộ xã và người dân, các mô hình phát triển sản xuất như trồng nấm rơm trong nhà, nuôi lươn, nuôi bò, kỹ thuật trồng rau màu an toàn…; thực hiện Quyết định 102/2009/QĐ-TTg (từ năm 2015 - 2017) hỗ trợ trực tiếp cho 116.448 người nghèo thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn, với số tiền trên 10 tỷ đồng; triển khai Quyết định số 18/2011/QĐ-TTgQuyết định 56/2013/QĐ-TTg (từ năm 2015 đến nay) về chính sách đối với người có uy, có 576 lượt người dân tộc thiểu số (trong đó, Khmer 413, Chăm 68, Hoa 85 và dân tộc khác 10) được bầu chọn là người có uy tín, với kinh phí thực hiện cho đối tượng thụ hưởng trên 1.253 triệu đồng, gồm các nội dung như tặng quà nhân ngày tết cổ truyền dân tộc, thăm hỏi ốm đau, tang chế, cấp phát miễn phí trên 133.000 tờ báo địa phương, hơn 45.000 tờ báo của trung ương (Báo Dân tộc và Phát triển), khen thưởng 20 vị tiêu biểu xuất sắc; tổ chức đoàn đi tham quan, học tập kinh nghiệm tại các tỉnh bạn; thực hiện Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg (giai đoạn 2013-2015, kéo dài đến năm 2017), đã hỗ trợ đất ở cho 894 hộ, kinh phí trên 29 tỷ đồng (với 33 triệu đồng/hộ), hỗ trợ lao động đào tạo nghề cho 83 người với kinh phí gần 63 triệu đồng; thực hiện Quyết định số 755/QĐ-TTg (năm 2016) đầu tư nước sinh hoạt phân tán cho các hộ gia đình nghèo để tạo nguồn nước sạch phục vụ sinh hoạt, với tổng số hộ được hỗ trợ là 774 hộ, kinh phí 01 tỷ đồng; năm 2017, thực hiện Quyết định số 2085/QĐ-TTg về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020, gồm hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt và chuyển đổi nghề; dự kiến số hộ thụ hưởng là 6.736 hộ, kinh phí thực hiện 117.897 triệu đồng; đối với chương trình cho vay tín dụng hộ dân tộc thiểu số nghèo tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh, cho vay vốn 162 tỷ đồng[8], với 11.278 người, chiếm tỷ lệ 41,85% trên tổng số hộ đồng bào dân tộc thiểu số và chiếm 5,27% trong tổng dư nợ tại Ngân hàng. Các chính sách khác[9] như hỗ trợ xây dựng 62 lò hỏa táng cho các chùa Khmer với kinh phí 37 tỷ đồng (600 triệu đồng/lò); hỗ trợ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 61 chùa Khmer; mua sắm nhạc cụ dân tộc 29 bộ, trong đó,  chùa Khmer 20 bộ, thánh đường Chăm 09 bộ.

Đồng thời với việc triển khai chính sách dân tộc, giúp đảm bảo nhu cầu cuộc sống, tinh thần của người dân, công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc cũng được cấp ủy, chính quyền đặc biệt quan tâm.

 Vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là vấn đề tồn tại lâu đời trong một số cộng đồng dân tộc, thời gian qua, đã tổ chức gần 20 cuộc tuyên truyền cho gần 2.000 lượt người tham gia với kinh phí khoảng 200 triệu đồng; việc tuyên truyền cho đối tượng sinh viên, học sinh và thanh niên dân tộc thiểu số cũng được đẩy mạnh, ngoài việc hỗ trợ các chính sách cử tuyển, dự bị đại học, các chính sách khởi nghiệp, còn được tập trung cung cấp các kiến thức pháp luật cần thiết, phù hợp với từng lứa tuổi như Luật giao thông đường bộ, bảo vệ môi trường, hôn nhân gia đình, đã tổ chức được 10 cuộc, với gần 3.000 em tham gia, kinh phí trên 250 triệu đồng; thực hiện cung cấp thông tin về giới và bình đẳng giới trong vùng đồng bào dân tộc, đã tổ chức 08 cuộc tuyên truyền tại các huyện, thị, thành, 01 cuộc tại cấp tỉnh, với hơn 1.200 người tham gia, kinh phí trên 100 triệu đồng; triển khai phổ biến, giáo dục pháp luật, các chính sách dân tộc, các điều luật liên quan đến dân tộc, tôn giáo, giao thông đường bộ, bảo vệ môi trường… cho hàng ngàn lượt người, kinh phí trên 500 triệu đồng; để công tác bảo vệ môi trường tác động mạnh mẽ trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, đã tổ chức tuyên truyền 08 lớp, với gần 1.000 lượt người tham gia, qua chương trình này, còn hỗ trợ các hộ dân chăn nuôi trên 10 hầm Biogas để xử lý chất thải, kinh phí trên 290 triệu đồng.

Ngoài ra, công tác phối hợp tuyên truyền giữa các sở, ban ngành tỉnh, các huyện thị, thành và các đơn vị Trung ương cũng diễn ra thường xuyên hàng năm[10]. Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa các cấp chính quyền với các tổ chức chính trị- xã hội và đoàn thể trong tỉnh như Ban Dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ tỉnh tổ chức tuyên truyền, vận động trong đồng bào dân tộc thiểu số tham gia xây dựng đời sống gia đình hạnh phúc, tham gia xây dựng nông thôn mới…

Thông qua việc triển khai thực hiện các chính sách dân tộc, công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cơ quan dân tộc trở thành “cầu nối” quan trọng giữa cấp ủy, chính quyền và đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh, giúp giải quyết những vấn đề phát sinh, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số, truyền tải xuyên suốt những chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

2. Kết quả về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới

2.1. Về kinh tế

Tình hình kinh tế của tỉnh trong những năm qua tiếp tục tăng trưởng khá, chủ yếu vẫn dựa vào phát triển nông nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu nông sản, thủy sản. GDP bình quân đạt 6,7%/năm; cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, nhất là lĩnh vực dịch vụ; thu nhập bình quân đầu người (năm 2018) đạt 3.541.000 đồng/tháng. Từ đó, tình hình kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng có nhiều bước phát triển khả quan, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào được cải thiện, công tác giảm nghèo theo hướng bền vững có nhiều chuyển biến rõ nét[11].

Tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số từ năm 2014 đến năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015) bình quân giảm 2,15%/năm; tính từ năm 2016 đến năm 2018 (áp dụng theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020)[12], bình quân tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,8%/năm (trong đó, hộ nghèo dân tộc Khmer có 4.089 hộ, dân tộc Chăm 247 hộ, dân tộc Hoa 02 hộ).

Đạt kết quả như trên là do cấp uỷ, chính quyền, mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đã tiếp nhận, sử dụng có hiệu quả các chính sách, nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và sự chăm lo của cộng đồng xã hội, đã không ngừng đổi mới phương thức thực hiện từ chuyển dần việc hỗ trợ phần lớn hoặc cho không, sang phát huy tinh thần tự giác, khơi dậy ý chí tự lực, giúp người nghèo phấn đấu vươn lên thoát nghèo theo hướng đa chiều và bền vững.

2.2. Về văn hóa - xã hội

a) Đối với hệ thống giáo dục:

Công tác giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số luôn được quan tâm chăm lo và có nhiều chuyển biến tích cực.

Toàn tỉnh có 51 trường trung học phổ thông, 156 trường trung học cơ sở, trong đó, có 21 trường thực hiện chương trình dạy tiếng dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh người dân tộc thiểu số phát huy tối đa khả năng tiếp thu tri thức. Đến nay, toàn tỉnh có 462 cán bộ quản lý giáo dục người dân tộc thiểu số ở các cấp học, ở các trường có đông học sinh dân tộc thiểu số, vùng biên giới còn tổ chức dạy tiếng Khmer cho đội ngũ cán bộ, viên chức[13].

Học sinh dân tộc thiểu số các cấp chiếm 4,96% so tổng số học sinh toàn tỉnh; riêng học sinh mẫu giáo 5 tuổi người dân tộc thiểu số có 1.379/32.609 học sinh, đạt 4,23% so dân số độ tuổi. Công tác xóa mù trong cộng đồng dân tộc thiểu số tăng lên đáng kể, năm 2014, tổng số người từ 15 tuổi đến 60 tuổi biết chữ chiếm 53%, đến năm 2018 chiếm 57%.

Tỉnh còn miễn học phí 100% đối với học sinh dân tộc Chăm và Khmer. Hỗ trợ học sinh dân tộc trong việc mua bảo hiểm y tế học sinh, bảo hiểm tai nạn con người. Các tổ chức xã hội, đoàn thể nhất là Hội Khuyến học hỗ trợ quà, tập, sách, xe đạp… tạo điều kiến tối đa cho học sinh dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn được đến trường.

Về công tác cử tuyển học sinh[14]: từ năm 2014-2017 đã cử tuyển vào các trường đại học trong và ngoài tỉnh 47 học sinh dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn cán bộ dân tộc cho địa phương.

Đối với vùng đồng bào dân tộc Khmer: có 02 trường trung học cơ sở dân tộc nội trú ở 02 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, quy mô 12 lớp/trường, hàng năm có khoảng 700 học sinh theo học; các trường đều tổ chức dạy song ngữ Việt - Khmer; vào các dịp hè, tại các điểm chùa cũng tổ chức dạy chữ Khmer cho học sinh người dân tộc Khmer. Ngoài ra, tỉnh còn có 01 trường trung học phổ thông dân tộc nội trú dành riêng cho con em đồng bào Khmer và Chăm, nhằm duy trì cho các em học hết hệ phổ thông, không bỏ học giữa chừng[15].

Đối với vùng đồng bào dân tộc Chăm: tuy chưa có trường dân tộc nội trú nhưng trong vùng có 02 trường trung học phổ thông, 04 trường trung học cơ sở, 13 trường tiểu học - mẫu giáo, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào dân tộc Chăm đi học; ngành giáo dục tổ chức 02 lớp dạy song ngữ Việt - Chăm tại xã Khánh Hòa (huyện Châu Phú) và xã Châu Phong (thị xã Tân Châu), bình quân tổ chức được từ 4 - 5 lớp/năm, với khoảng 100 học sinh; sách giáo khoa tiếng Chăm là tài liệu phiên dịch từ sách giáo khoa tiếng Việt, được biên soạn từ sự hợp tác giữa Sở Giáo dục-Đào tạo Tây Ninh với các nhân sĩ người Chăm An Giang. Ủy ban nhân dân tỉnh còn ban hành Công văn số 5267/VPUBND-KTTH ngày 10/10/2018 cho chủ trương mức chi trả tiền cho trí thức địa phương dạy tiếng Chăm bắt đầu từ năm học 2018 - 2019.

Đối với đồng bào dân tộc Hoa: người Hoa luôn chú trọng việc học tập, hầu hết trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường và học chương trình phổ thông. Tỉnh có 01 Trung tâm Hoa ngữ (thành phố Long Xuyên) và 01 Trung tâm ngoại ngữ Trung văn- Chi nhánh 3 (thành phố Châu Đốc), mỗi năm mở 04 khóa học, có khoảng 80 học viên/khóa học (3 tháng).

b) Về đào tạo, dạy nghề:

Từ năm 2014 đến nay, đã đào tạo nghề cho trên 5.476 người dân tộc thiểu số. Công tác đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số được tỉnh quan tâm triển khai thực hiện, thông qua các chương trình, dự án, đề án, đã đào tạo giúp nhiều người lao động dân tộc thiểu số có tay nghề, tìm được việc làm, tạo ra thu nhập, cải thiện cuộc sống, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo ở địa phương. Tỉnh có 01 Trường trung cấp nghề dân tộc nội trú tại huyện Tri Tôn, có 705 học viên theo học các lớp dạy nghề, trong đó, học viên dân tộc thiểu số có 191 học viên.

Người dân tộc thiểu số thường đăng ký học các nghề như: Kỹ thuật nuôi gia cầm an toàn sinh học, kỹ thuật nuôi lươn, kỹ thuật nuôi ếch, kỹ thuật nuôi bò, heo, may công nghiệp, xây dựng dân dụng, sửa chữa xe máy, đan đát, dệt thổ cẩm Khmer...; số người sau khi học nghề có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ nhưng có năng suất, thu nhập cao hơn. Nhiều người tự tạo việc làm tại địa phương, một số tìm việc làm ở các doanh nghiệp trong hoặc ngoài tỉnh. Hầu hết số lao động có việc làm đều có áp dụng kiến thức đã học vào trong sản xuất, việc làm để giảm chi phí, nâng cao năng suất, tăng thu nhập.

c) Về hoạt động văn hóa, lễ hội:

Trong các dịp lễ, tết cổ truyền đồng bào dân tộc thiểu số như tết Nguyên Đán của đồng bào Hoa; tết Chôl Chnăm Thmây, lễ Đôn Ta của đồng bào Khmer; tháng nhịn chay Ramadan, tết Roya Haji của đồng bào Chăm cũng được cấp ủy, chính quyền tổ chức các đoàn đi thăm hỏi, tặng quà cho các chùa, thánh đường, gia đình chính sách, các trường có con em đồng bào dân tộc đang học, các vị chức sắc, cán bộ tiêu biểu người dân tộc thiểu số, với tổng kinh phí gần 600 triệu đồng/năm; các hoạt động Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch của đồng bào Khmer, Chăm, Lễ hội đua bò Bảy Núi… được tỉnh hỗ trợ duy trì hàng năm, với nhiều hoạt động phong phú, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc riêng, thu hút đông đảo người dân, khách du lịch trong và ngoài tỉnh tham dự. Riêng trong năm 2019, ngoài việc tổ chức họp mặt, tỉnh còn đặc biệt hỗ trợ cho hộ nghèo dân tộc Khmer (4.089 hộ) vui tết Chôl Chnăm Thmây và hộ nghèo dân tộc Chăm (247 hộ) vui tết Roya Haji với tổng kinh phí 1,3 tỷ đồng (300.000 đồng/hộ).

Nhờ tích cực bảo tồn, giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa truyền thống dân tộc, đến nay, An Giang có 03 di sản văn hoá được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia[16], trong đó, có Hội đua bò Bảy Núi và Bộ kinh lá Buông được công nhận “Tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông của người Khmer” của đồng bào dân tộc Khmer. Ngoài ra, Tỉnh còn lưu giữ nhiều tư liệu về nghệ thuật Dì Kê, đàn Chà-Pây của dân tộc Khmer; các hình thức thực hành nghi lễ vòng đời và hơn 20 làn điệu âm nhạc cổ truyền của dân tộc Chăm, nghệ thuật múa lân, sư, rồng cùng đội bát cấu của dân tộc Hoa; quan tâm đầu tư phát triển các ngành nghề thủ công mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc như dệt thổ cẩm, tranh lá thốt lốt, đường thốt lốt…

d) Về xây dựng đời sống văn hóa; thông tin, truyền thông:

Tỉnh có 100% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình, riêng Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh phát sóng chuyên mục tiếng Khmer, với thời lượng 60 phút/ngày, lúc 13 giờ hàng ngày; 100% xã có điện thoại cố định và điện thoại di động, đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin và liên lạc của người dân trong vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

Thực hiện tốt phong trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, gắn với xây dựng “Điểm sáng văn hóa biên giới”; trên địa bàn biên giới toàn tỉnh có 42.350 hộ/50.500 hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa và 67/73 khóm, ấp văn hóa, 05 xã đạt chuẩn văn hóa; 32 khóm, ấp đạt chuẩn “Điểm sáng văn hóa biên giới”. Qua đó, đẩy mạnh bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, xây dựng gia đình văn hóa, phum, sóc văn hóa.

e) Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe:

Công tác chăm sóc sức khỏe và khám, chữa bệnh cho nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc luôn được chú trọng. Lĩnh vực hoạt động y tế phát triển mạnh cả về quy mô, số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân.

Tổng số nhân lực y tế người dân tộc thiểu số là 277/9.635 người (y tế công lập 256 người, y tế ngoài công lập 21 người), chiếm tỷ lệ 2,87 % so với tổng số nhân lực y tế. Đến cuối năm 2018, số người dân tộc thiểu số trong ngành y được đào tạo trung cấp là 156 người; cao đẳng, đại học là 40 người; thạc sĩ 02 người.     

Toàn tỉnh (năm 2018) có 1.662.553 người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm tỷ lệ khoảng 83,17% dân số, trong đó, dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế là 69.949 người; đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo từ kinh phí của quỹ khám, chữa bệnh người nghèo; hỗ trợ 50% mệnh giá bảo hiểm y tế tự nguyện cho người cận nghèo.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí đội ngũ y, bác sĩ về phục vụ ở vùng đồng bào dân tộc cũng được thực hiện[17]. Việc trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian được đặc biệt quan tâm, nhất là phát triển cây dược liệu ứng dụng công nghệ cao, góp phần làm phong phú thêm các loại thuốc dân gian của tỉnh nhà, vừa giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân vùng đồng bào dân tộc[18].

2.3. Về hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng

Nhận thức đúng đắn vị trí và ý nghĩa to lớn của công tác dân tộc - tôn giáo, trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh luôn quan tâm thực hiện đúng đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc - tôn giáo, đã ngăn chặn có hiệu quả các hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng để chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc.

Đồng thời với việc thực hiện tốt quyền bình đẳng của các dân tộc, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của mọi công dân, cấp ủy, chính quyền còn thường xuyên quan tâm đến hoạt động của các tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng như: tạo điều kiện cho các chùa, thánh đường sinh hoạt tôn giáo, hỗ trợ cho con em đồng bào dân tộc Chăm đi hành hương, học tập ở nước ngoài; trùng tu, xây mới cơ sở thờ tự; xây các lò hỏa táng ở các điểm chùa Khmer, mở 12 lớp sơ cấp Pali. Nhu cầu của các tôn giáo ở vùng dân tộc được giải quyết kịp thời, thỏa đáng theo đúng quy định của pháp luật; mối quan hệ giữa các tôn giáo với cấp uỷ, chính quyền địa phương được cải thiện và phát triển tốt. Các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống mới, sống “tốt đời, đẹp đạo” do mặt trận tổ quốc phát động được các chức sắc, nhà tu hành và quần chúng tín đồ các tôn giáo hưởng ứng tích cực. Qua đó, tạo sự gắn bó hòa hợp, cùng chung sức xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.

2.4. Xây dựng nông thôn mới

Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới của tỉnh trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nông thôn ngày càng khang trang, cơ sở hạ tầng được quan tâm đầu tư; hệ thống giao thông đáp ứng nhu cầu đi lại, mua bán của người dân; hệ thống thủy lợi đảm bảo phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt; phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với cơ cấu lại nông nghiệp đạt được nhiều thành tựu, tạo được sự đồng thuận của người dân.

Đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các hộ nghèo, phần nhiều tập trung tại các vùng nông thôn, vùng núi, biên giới, nên việc thực hiện công tác dân tộc, chính sách dân tộc đối với An Giang cũng là thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh. Tính đến nay, khu vực nông thôn tập trung đông đồng bào dân tộc đã có những bước chuyển mình rõ nét: 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã, ấp, 100% số xã có trạm y tế, công trình thuỷ lợi, nhà bưu điện văn hóa, trạm truyền thanh, lưới điện quốc gia hoặc điện nông thôn (có trên 90% số hộ có điện sinh hoạt), số hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh ngày một tăng. Từ những con đường lầy lội trong các phum, sóc trước đây, đến nay các tuyến đường chính vùng dân tộc đều được bê tông, nhựa hóa, góp phần tổ chức lại sản xuất, tạo việc làm, cải thiện đời sống, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh[19].

Qua 8 năm triển khai thực hiện, tính riêng tại 03 huyện (huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và An Phú) có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 75% dân tộc thiểu số cả tỉnh, đã có 07/36 xã được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 19,4% so tổng số xã của 03 huyện.

3. Kết quả xây dựng hệ thống chính trị và quốc phòng - an ninh vùng dân tộc thiểu số

3.1. Về xây dựng hệ thống chính trị, đào tạo nguồn nhân lực

Tỉnh hiện có 1.522 cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số (cấp tỉnh 543 người; cấp huyện 675 người; cấp xã 304 người), chiếm 3,42% so với tổng số cán bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị các cấp trong vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.

Các cấp uỷ luôn quan tâm phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị; quan tâm làm tốt công tác phát triển Đảng. Số lượng cán bộ dân tộc thiểu số tham gia cấp uỷ, bộ máy chính quyền, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng tăng, tỉnh hiện có 123 cán bộ người dân tộc thiểu số tham gia cấp uỷ các cấp (cấp tỉnh 01, huyện 09 và cơ sở 113); có 01 đại biểu người dân tộc Khmer là đại biểu Quốc hội khóa XIV và 258 đại biểu người dân tộc Khmer tham gia Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2016 - 2021 (tỉnh 04; huyện 15; xã 239 người).

Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số được tỉnh chú trọng thực hiện ngay từ khi còn học phổ thông, để tạo nguồn cử tuyển đại học và tuyển dụng sau khi tốt nghiệp đại học; quan tâm đào tạo chuyên môn, chuẩn hóa và bồi dưỡng cho cán bộ người dân tộc thiểu số, một số cán bộ người dân tộc thiểu số được bồi dưỡng ngoại ngữ ở nước ngoài. Công tác tuyển dụng công chức, viên chức người dân tộc thiểu số được thực hiện chế độ ưu tiên đầy đủ; đồng thời, tỉnh đã vận dụng miễn thi môn ngoại ngữ đối với người dân tộc Khmer, Chăm.

Đến nay, mỗi xã, phường, thị trấn trong tỉnh đều có lực lượng nòng cốt và cốt cán là người dân tộc thiểu số tiêu biểu, hoạt động hiệu quả, tích cực, đã giúp bà con chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như truyền tải những tâm tư, nguyện vọng của bà con đến các cấp chính quyền một cách kịp thời, thỏa đáng.

3.2. Về an ninh quốc phòng

Các cấp uỷ, chính quyền luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường nắm bắt địa bàn và tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức cho người dân, đồng thời, đẩy mạnh xây dựng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” để đẩy lùi tội phạm, nhất là ở vùng dân tộc và khu vực biên giới[20]; hoạt động đối ngoại với các tỉnh có chung đường biên giới cũng được nâng cao, góp phần xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển; duy trì và nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế với 02 tỉnh Tàkeo, Kandal (Vương quốc Campuchia) trên các lĩnh vực như kinh tế biên mậu; phân giới cắm mốc biên giới Việt Nam - Campuchia; công tác phòng ngừa, quản lý, đấu tranh với phần tử xấu; giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vụ việc khiếu nại, tố cáo, nhất là ưu tiên xem xét, thực hiện chính sách xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Đánh giá tổng quát

Các cấp uỷ, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc; các ngành liên quan có sự phối hợp khá chặt chẽ trong việc chăm lo các mặt đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào dân tộc. Từ đó, tình hình kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bước chuyển tích cực.

Việc thực hiện chính sách chuyển đổi nghề, tạo việc làm trong đồng bào dân tộc thiểu số đã phát huy hiệu quả, nhất là có sự dịch chuyển nguồn lao động từ nông thôn lên các đô thị lớn và các khu công nghiệp tập trung, tạo điều kiện cho đồng bào có thu nhập ổn định, góp phần xóa đói giảm nghèo, hòa nhập cộng đồng và vươn lên thoát nghèo bền vững. Ý thức học tập và số lượng học sinh dân tộc thiểu số ở các cấp học không ngừng nâng lên. Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng, đội ngũ cán bộ, các cơ sở y tế, trang thiết bị phục vụ khám, chữa bệnh trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được tăng cường tốt hơn. Nguồn vốn tín dụng chính sách đã đến hầu hết các khóm, ấp, làng trong tỉnh, đã tác động toàn diện đến mọi mặt của đời sống người dân tộc thiểu số.

Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống được đảm bảo, phát huy, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững ổn định; phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc được đồng bào hưởng ứng tích cực.

2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- Là tỉnh đông dân nhất vùng đồng bằng Sông Cửu Long, vị trí địa lý cách xa trung tâm lớn, phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng còn thấp so với cả nước và thiếu bền vững; thị trường tiêu thụ, xuất khẩu nông - thuỷ sản luôn gặp khó, ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số.

- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là đối với địa bàn vùng dân tộc, biên giới còn yếu kém, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và kêu gọi đầu tư. Việc triển khai các chính sách trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đòi hỏi có nguồn vốn nhiều, suất đầu tư lớn; trong khi đó, nguồn vốn phân bổ của trung ương và nguồn lực của địa phương còn hạn chế nên việc thực hiện các chính sách dân tộc còn phân tán, thiếu tập trung, hiệu quả chưa cao.

- Một bộ phận không ít người dân tộc trong vùng dân tộc thiểu số chưa nói được tiếng Việt, gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp; mặt khác, do mặt bằng dân trí thấp nên hạn chế trong công tác đào tạo nghề, việc làm, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ cũng như tiếp cận, nắm bắt thông tin thị trường. Ngoài ra, phương thức sản xuất, tập quán canh tác của vùng đồng bào dân tộc còn mang tính truyền thống, nhỏ lẻ; điểm xuất phát về kinh tế - xã hội còn thấp.

- Công tác phổ cập giáo dục xóa mù chữ mặc dù thu được một số kết quả, tuy nhiên tỷ lệ vẫn còn thấp và thiếu tính bền vững. Cán bộ, giáo viên người Kinh còn hạn chế về tiếng dân tộc nên khó giao tiếp với phụ huynh học sinh trong các hoạt động phối hợp giáo dục. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học tuy có đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ theo yêu cầu.

- Việc bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nơi chưa được quan tâm đúng mức, một số loại hình văn hóa, nghệ thuật của đồng bào dân tộc Khmer, Chăm, Hoa có nguy cơ bị mai một.

- Việc xây dựng, củng cố tổ chức đảng trong hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số tuy được quan tâm nhưng chưa đáp ứng tốt yêu cầu; tỉ lệ cán bộ người dân tộc tham gia vào cấp uỷ, cơ quan nhà nước, đoàn thể các cấp chưa tương xứng; công tác phát triển đảng viên trong lực lượng cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số vẫn còn ít so với yêu cầu.  

- Đặc điểm của dân tộc gắn liền với tôn giáo nên các hộ dân thường sống quần tụ quanh chùa, thánh đường… do đó, một số nơi cũng gặp khó khi bố trí tái định cư; tập quán chăn nuôi gia súc hộ gia đình nên ảnh hưởng không ít đến môi trường sống của cộng đồng dân cư.

- Tình hình an ninh chính trị, tinh thần đoàn kết dân tộc, tôn giáo tuy được giữ vững và tăng cường, nhưng vẫn còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới; những tác động xấu và các hoạt động móc nối, lôi kéo của các thế lực thù địch từ bên ngoài.

b) Nguyên nhân những tồn tại, hạn chế

- Kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc phát triển thấp, mang nặng tính tự cấp, tự túc, dựa nhiều vào tự nhiên; phương thức sản xuất, tập quán canh tác còn lạc hậu, chưa nắm bắt kịp những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại để áp dụng vào sản xuất, chưa khai thác hết mọi tiềm năng sẵn có tại địa phương.

- Nhận thức của các cấp, các ngành và của một bộ phận cán bộ, đảng viên về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc ở một số nơi chưa thực sự sâu sắc, toàn diện; một số chính sách dân tộc chưa được cụ thể hóa và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của địa phươngmột bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, trong đó có phần mặt trái của các chính sách đã tạo ra.

- Tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác dân tộc ở cấp cơ sở tuy được kiện toàn, nhưng nhân lực vẫn còn thiếu so yêu cầu, nhất là cán bộ vùng dân tộc chưa biết tiếng dân tộc. Các phần tử xấu luôn tìm cách lợi dụng những khó khăn về đời sống của đồng bào dân tộc để kích động khiếu kiện, gây mất an ninh trật tự và chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

3. Bài học kinh nghiệm

Một là, các cấp uỷ, chính quyền nơi nào quan tâm, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là quán triệt phương châm “kiên trì, thận trọng, tế nhị” để huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, thì nơi đó triển khai có hiệu quả các chủ trương, chính sách dân tộc.

Hai là, tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, giữ vững an ninh - chính trị, cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, trình độ dân trí, là yếu tố quyết định then chốt cho sự phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Ba là, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cần tăng cường hơn nữa, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, hiệu quả, hướng mạnh về địa bàn cơ sở, thông qua mô hình “dân vận khéo” trong xây dựng nông thôn mới và phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi gắn với xây dựng lực lượng nòng cốt trong đồng bào dân tộc.

Bốn là, cần thường xuyên xây dựng mối quan hệ gắn bó và phát huy tốt vai trò nòng cốt của các vị chức sắc, chức việc, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số để tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; điều này tạo được mọi sự đồng thuận, thống nhất cao giữa quần chúng nhân dân và các cấp chính quyền trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương.

Năm là, cần giải quyết sớm, dứt điểm các những nhu cầu, bức xúc của người dân, thấu hiểu tâm tư tình cảm, nguyện vọng của đồng bào dân tộc; không để xảy ra điểm nóng, tránh các thế lực thù địch lợi dụng, kích động chia rẻ tình đoàn kết dân tộc, làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nhất là các vùng giáp biên giới.        

 

 

Phần thứ ba

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN

CÔNG TÁC DÂN TỘC, CHÍNH SÁCH DÂN TỘC GIAI ĐOẠN 2019-2024

 

 

I. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu chung đến năm 2024, là thu hẹp một bước chênh lệch giữa vùng dân tộc thiểu số so với vùng phát triển. Tiếp tục tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các chương trình, dự án đầu tư. Nâng cao trình độ dân trí; bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào dân tộc; đẩy mạnh việc dạy và học chữ Khmer, Hoa, Chăm; chăm sóc sức khỏe tốt, hạn chế mức thấp nhất các loại dịch bệnh nguy hiểm. Củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; hoàn thiện hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở các xã, thị trấn vùng có đông đồng bào dân tộc; nâng cao vị trí vai trò của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia thực hiện tốt chính sách dân tộc. Giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc, nhất là những địa bàn xung yếu, trọng điểm; làm tốt công tác đối ngoại với các tỉnh bạn Campuchia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị và đoàn kết.

2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2024

Phấn đấu đến năm 2024, giảm 15% số xã đặc biệt khó khăn, giảm 30% hộ nghèo dân tộc thiểu số hiện nay.

100% các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi có đủ hạ tầng thiết yếu như đường ô-tô cứng hóa đến trung tâm xã, trường học các cấp được kiên cố hóa; 100% trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia, 100% hộ dân tộc thiểu số có thẻ Bảo hiểm y tế; nâng cao chất lượng tiếp cận các dịch vụ phúc lợi cơ bản của người dân; không còn hộ dân tộc thiểu số thiếu nhà ở, nước sinh hoạt mà chưa được hỗ trợ; đảm bảo 95% hộ nghèo dân tộc có nhu cầu, đủ điều kiện, tiếp cận nguồn vốn vay chính sách; tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số trong độ tuổi (6 - 14 tuổi) đến trường đạt từ 85% trở lên; tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý, bảo đảm 95% đồng bào dân tộc thiểu số không còn tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống.

Chú trọng hỗ trợ việc làm (bao gồm đi làm ăn xa ngoài địa phương) đối với đồng bào dân tộc thiểu số; có các chính sách phát triển nguồn nhân lực và chính sách riêng cho thanh niên dân tộc thiểu số, chú trọng nâng cao kỹ năng sống và hội nhập cho các cháu học sinh.

Tập trung phát triển, khu trú các nhóm đối tượng một cách rõ ràng và cụ thể, đầu tư chính sách một cách phù hợp và hiệu quả theo vùng và theo nhóm đối tượng; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao được ưu tiên tập trung đầu tư theo tiêu chí nông thôn mới. Trước hết là hạ tầng thiết yếu như giao thông, điện, nước sạch sinh hoạt, hệ thống thủy lợi.

II. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

1. Phương hướng, nhiệm vụ

- Tiếp tục tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các chương trình, dự án đầu tư, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các dân tộc trong cộng đồng.

- Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào dân tộc; đẩy mạnh việc dạy và học chữ dân tộc, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.

- Xây dựng đội ngũ cán bộ và cán bộ làm công tác dân tộc có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở các xã, thị trấn vùng dân tộc; nâng cao vị trí, vai trò của mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong việc tham gia thực hiện chính sách dân tộc.

- Giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc, nhất là ở những địa bàn xung yếu, trọng điểm, vùng biên giới.

2. Giải pháp

- Nâng cao hơn nữa nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp tham gia của ủy ban mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, cộng đồng các dân tộc về công tác dân tộc và chính sách dân tộc, công tác giảm nghèo gắn với xây dựng nông thôn mới, xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, là việc làm thường xuyên của cả hệ thống chính trị và chính bản thân người nghèo.

- Tập trung dồn sức xóa dứt điểm từng hộ nghèo dân tộc thiểu số, tăng nguồn vốn đầu tư cho các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao; đề xuất với Trung ương (kèm phụ lục) có chủ trương đầu tư mạnh hơn, triển khai kịp thời các chính sách, nhất là đất ở, dạy nghề, việc làm; hỗ trợ đầu tư phát triển ngành nghề truyền thống, công trình thuỷ lợi vùng cao, góp phần thực hiện tốt công tác giảm nghèo, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, ý thức bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, tệ nạn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

- Chăm lo công tác giáo dục, nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào dân tộc; đầu tư mạnh hơn cho công tác giáo dục - đào tạo, tiếp tục thực hiện chính sách cử tuyển, dự bị đại học cho học sinh người dân tộc; xây dựng các chuyên đề giáọ dục kỹ năng phù hợp đối với học sinh dân tộc thiểu số; phối hợp tốt việc dạy nghề và các hoạt động khởi nghiệp, đảm bảo đúng thực chất để mang lại hiệu quả thiết thực. Hỗ trợ khôi phục các loại hình văn hoá, thể thao truyền thống của đồng bào dân tộc, tạo sự đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức trong các hoạt động lễ hội hằng năm của tỉnh. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình y tế quốc gia, chương trình dân tộc gắn với kế hoạch hóa gia đình và phòng, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, đảm bảo vệ sinh môi trường ở vùng đồng bào dân tộc. 

- Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ người dân tộc; tăng cường cán bộ công tác ở địa bàn có đông đồng bào dân tộc, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; kiện toàn bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ phụ trách công tác dân tộc về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng công tác; đẩy mạnh phát triển đảng viên, giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ khoa học kỹ thuật người dân tộc thiểu số.

- Phát động mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước; phát huy gương người tốt, việc tốt gắn với thực hiện cuộc vận động giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nông thôn mới; chú trọng khai thác sáng kiến kinh nghiệm của các tổ chức, cá nhân có thành tích nổi bật, đề cao ý thức tự lực tự cường, khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại của đồng bào dân tộc vào sự hỗ trợ của Nhà nước.

- Phát huy vai trò của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác vận động, tập hợp lực lượng cốt cán, người có uy tín, chức sắc, chức việc, để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tạo mối quan hệ mật thiết giữa nhà chùa, thánh đường với cấp uỷ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân trong vùng đồng bào dân tộc, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

- Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở các vùng dân tộc ngày càng vững mạnh; kịp thời phát hiện, ngăn chặn và chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để xảy ra điểm nóng về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 

Tóm lại, chính sách dân tộc, công tác dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thường xuyên và cũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; Đảng và Nhà nước khẳng định chính sách đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số là một chủ trương chiến lược, đây là một trong những công việc lớn phải làm và cần sự kiên trì bền bỉ; đồng bào các dân tộc cần phải đoàn kết, cùng nhau góp sức với Đảng, Nhà nước để xây dựng quê hương An Giang ngày càng giàu đẹp, ngày một ấm no và hạnh phúc.

Đại hội kêu gọi:

CÁC DÂN TỘC HÃY ĐOÀN KẾT, PHÁT HUY NỘI LỰC,

HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN !

 

 

[1] Theo Quyết định 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn 2017-2020; An Giang có 18 xã đặc biệt khó khăn thuộc 04 huyện, thị xã: huyện Tri Tôn (xã An Tức, Núi Tô, Ô Lâm, Lê Trì), huyện Tịnh Biên (xã Văn Giáo, An Cư, An Nông, An Phú, Nhơn Hưng), huyện An Phú (xã Phú Hội, Vĩnh Hội Đông, Khánh Bình, Nhơn Hội, Quốc Thái, Phú Hữu) và thị xã Tân Châu (xã Vĩnh Xương, Phú Lộc).   

[2] Theo Quyết định 414/QĐ-UBDT ngày 11/7/2017 của Ủy ban Dân tộc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn vào diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn 2017-2020; An Giang có 27 khóm, ấp đặc biệt khó khăn của 10 xã, thị trấn thuộc 03 huyện được ngân sách Trung ương đầu tư, gồm: 16 khóm, ấp của 05 xã, thị trấn thuộc huyện Tri Tôn (xã Cô Tô có ấp Tô An, Tô Lợi, Sóc Triết; xã Châu Lăng có ấp Cây Me, Tà On, An Thuận, An Hòa, Rò Leng; xã Lương An Trà có ấp Ninh phước, Cà Na, Phú Lâm; xã Lương Phi có ấp Tà Miệt, Tà Dung; thị trấn Ba Chúc có khóm An Bình, An Hòa A, Thanh Lương); 10 khóm, ấp của 04 xã, thị trấn thuộc huyện Tịnh Biên (xã Tân Lợi có ấp Tân Thuận, Tân hiệp; xã Vĩnh Trung có ấp Vĩnh Tây, Vĩnh Tâm, Vĩnh Đông; xã An Hảo có ấp An Lợi, An Đông, Tà Lọt, An Thạnh; thị trấn Chi Lăng có khóm III); 01 ấp của thị trấn Óc Eo thuộc huyện Thoại Sơn (ấp Tân Đông).    

[3] Theo Quyết định 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu II, khu I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020; An Giang có 38 xã thuộc khu vực vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó, có 10 xã khu vực I, 20 xã khu II và 08 xã khu vực III (huyện Tri Tôn có 04 xã KV III, 06 xã, thị trấn KV II; huyện Tịnh Biên có 02 xã KV III, 07 xã, thị trấn KV II, 04 xã, thị trấn KV I; huyện An Phú có 02 xã KV III, 04 xã KV II, 01 xã KV I; huyện Châu Thành có 02 xã KV II, 02 xã KV I, huyện Châu Phú có 02 xã KV I; thị xã Tân Châu 01 xã KV I; huyện Thoại Sơn có 01 thị trấn KV II).

[4] Theo Nghị định 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 của Chính phủ về quy chế khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; An Giang có 18 xã biên giới thuộc 05 huyện, thị, thành (huyện Tri Tôn 02 xã, huyện Tịnh Biên 04 xã, huyện An Phú 08 xã, thị xã Tân Châu 02 xã, thành phố Châu Đốc 02 xã, phường).

[5] Trước đó, có Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; gần đây có Chỉ thị số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 của Ban Bí thư về tăng cường và đổi mới công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me trong tình hình mới.

[6] Gồm Chương trình hành động số 09-CTr/TU ngày 16/6/2003 về “Công tác dân tộc trong tình hình mới” thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX); ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 23/10/2007 về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015; Đề án số 05-ĐA/TU ngày 29/9/2008 của Tỉnh ủy An Giang về việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong vùng đồng bào dân tộc Khmer; Kế hoạch số 22-KH/TU ngày 12/4/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”; Kế hoạch số 54-KH/TU ngày 12/6/2018 về thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khơ-me trong tình hình mới.

[7] Gồm Đề án số 03/ĐA-UBND ngày 08/11/2013 Đề án cấp nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh An Giang giai đoạn 2014 - 2015; ra Quyết định số 1527/QĐ-UBND ngày 09/9/2014 ban hành Kế hoạch “Triển khai chương trình hành động thực hiện Chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020” trên địa bàn tỉnh An Giang; Kế hoạch số 171/KH-UBND ngày 01/4/2016 về việc thực hiện Đề án “Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số”; ra Quyết định số 3038/QĐ-UBND ngày 12/10/2017 phê duyệt Đề án thực hiện Quyết định số 2085/QĐ-TTg về chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017-2020 trên địa bàn tỉnh An Giang...; cùng nhiều chương trình, chính sách khác; riêng trong năm 2019, đã ban hành Kế hoạch số 473/KH-UBND ngày 05/8/2019 về thực hiện Đề án “Bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2018-2025 theo Quyết định số 771/QĐ-TTg (năm 2018) của Thủ tướng Chính phủ.

[8] Cho vay tín dụng gồm 15 chương trình tín dụng chính sách, chủ yếu là chương trình cho vay hộ dân tộc thiểu số nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định 74, 29/QĐ-TTg là 16,9 tỷ đồng, cho vay hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 32, 54 QĐ-TTg là 2,22 tỷ đồng, cho vay ưu đãi với hộ nghèo là 37,8 tỷ đồng, chương trình hộ nghèo về nhà ở là 22,3 tỷ đồng, chương trình cho vay hộ cận nghèo là 28,6 tỷ đồng, chương trình cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn là 12,6 tỷ đồng, chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn 15,4 tỷ đồng, chương trình hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn là 11,2 tỷ đồng, các chương trình cho vay còn lại là 14,98 tỷ đồng.

[9] Chương trình 160 theo Quyết định 160/2007/QĐ-TTg ngày 17/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội các xã tuyến biên giới Việt Nam - Lào và Việt Nam - Campuchia đến 2010”, nay thực hiện theo Thông báo số 211/2015/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ và Công văn số 4526/BKHĐT-TH ngày 06/7/2015, được chuyển về cho địa phương quản lý, thực hiện. Trong giai đoạn 2016-2020, bố trí cho các xã biên giới khoảng 37 tỷ đồng.

[10] Đã phối hợp tổ chức 02 cuộc tuyên truyền phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc cho gần 400 người, biên soạn và in ấn tài liệu và tờ bướm với 1.200 quyển tài liệu pháp luật và 8.000 tờ bướm; tuyên truyền Luật Biên giới quốc gia, vai trò của đồng bào trong việc tham gia bảo vệ chủ quyền, tình hình phân giới cắm mốc Việt Nam- Campuchia tại 05 huyện, thị, thành phố giáp biên cho trên 25 cuộc, gần 3.000 lượt người tham gia, kinh phí trên 240 triệu đồng; thực hiện 04 cuộc tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức về bảo đảm trật tự an ninh, phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, với kinh phí 50 triệu đồng; tổ chức tuyên truyền về các chính sách an sinh xã hội, công tác xóa đói giảm nghèo được 12 cuộc với gần 1.000 lượt người, kinh phí 100 triệu đồng; về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, đã tổ chức kiểm kê, sưu tằm các hiện vật, hướng dẫn cách thức bảo quản, phục dựng các yếu tố bị mai một, đồng thời tuyên truyền các chính sách văn hóa dân tộc được 10 cuộc với gần 900 người, kinh phí 150 triệu đồng; hỗ trợ nông dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường, khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, đã hướng dẫn cho nông dân được 07 cuộc với kinh phí trên 60 triệu đồng.

[11] Đối với việc thực hiện quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân tộc thiểu số và khu vực biên giới. Tỉnh chủ động phối hợp với các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh bạn phía Campuchia thường xuyên tổ chức hội chợ thương mại vùng biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tìm hiểu, ký kết hợp đồng thương mại, đầu tư. Toàn tỉnh hiện có 26 chợ biên giới, trong đó, chợ Long Bình (huyện An Phú) có doanh số bán hàng bình quân trên 290 tỉ đồng/năm.

[12] Tỷ lệ hộ nghèo người dân tộc thiểu số năm 2014 (chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015, theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ) là 17,37% (với 4.870 hộ nghèo) giảm còn 13% (3.663 hộ) vào cuối năm 2015, bình quân trong 2 năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,15%/năm; từ năm 2016 (áp dụng chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ), tỷ lệ hộ nghèo 27,46% (với 7.295 hộ nghèo) giảm còn 16% (4.338 hộ) vào cuối năm 2018, bình quân trong 3 năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,8%/năm.

[13] Tỉ lệ người biết chữ từ 15 - 35 tuổi đạt 94,27% (698.194/740.668 người); trẻ em trong độ tuổi đi học đều được hỗ trợ, giúp đỡ đến trường; tỉ lệ huy động vào lớp 1 bình quân hằng năm đạt 95%. Đến nay, 100% số xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, 150/156 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở.

[14] Theo Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ về “Quy định chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân”

[15] Tỉnh có 03 trường phổ thông dân tộc nội trú là Trường phổ thông Dân tộc nội trú trung học phổ thông tỉnh đặt tại thành phố Châu Đốc, Trường phổ thông Dân tộc nội trú trung học cơ sở Tri Tôn đặt tại huyện Tri Tôn và Trường phổ thông Dân tộc nội trú trung học cơ sở Tịnh Biên đặt tại thị trấn Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên.

[16] Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam (năm 2015); Lễ hội đua bò Bảy Núi (năm 2016); tri thức và kỹ thuật viết chữ trên lá buông của người Khmer (năm 2017).

[17] Toàn Tỉnh có 15 bệnh viện, 250 phòng khám đa khoa khu vực, 100% xã có trạm y tế (trong đó, có 72% trạm y tế xã có bác sĩ và có 16/29 xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã, 837/888 khóm, ấp đều có nhân viên y tế; 138/156 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tỉ lệ giường bệnh/01 vạn dân đạt 21,95 giường; có 3.415 cơ sở hành nghề y dược ngoài công lập, trong đó, có 1.575 cơ sở y, 1.604 cơ sở dược, 236 cơ sở y học cổ truyền.

[18] Tỉnh đã triển khai chương trình phát triển cây dược liệu ứng dụng công nghệ cao, trên diện tích hơn 276 ha với phong phú loài cây dược liệu quí như cây dó bầu (cây trầm hương), cây huyền, đinh lăng, ngãi đen, sâm bố chính, chùm ngây, gấc, nghệ đen, sâm cóc, sa nhân tím, tam thất nam, nghệ xà cừ...

[19] Đầu năm 2019, toàn tỉnh có 50 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới (chiếm 42,02%), đứng thứ 4 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Trong năm 2019, tỉnh phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới thêm 7 xã, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 57/119 xã toàn tỉnh. Hiện nay, có 03 địa phương đã hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới là thành phố Long Xuyên, thành phố Châu Đốc và huyện Thoại Sơn.

[20] trong 05 năm qua, đã phát 24.000 tờ gấp, tờ rơi, 1.300 áp phích; xây dựng 11 cụm pa nô tuyên truyền trực quan trên địa bàn biên giới.

Đại hội Đại biểu các Dân tộc thiểu số tỉnh An Giang lần III năm 2019
Các dân tộc Việt Nam