Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam là một sự kiện chính trị - xã hội đặc biệt quan trọng trong đời sống cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung, tỉnh An Giang nói riêng, khẳng định Việt Nam là quốc gia thống nhất gồm nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, kề vai sát cánh, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước rất quan tâm và đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Căn cứ các văn bản hướng dẫn của Trung ương về tổ chức Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh An Giang báo cáo tổng kết phong trào thi đua yêu nước của đồng bào dân tộc thiểu số trên các lĩnh vực của đời sống, xã hội qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, hội nhập, phát triển và đánh giá tình hình kết quả thực hiện công tác dân tộc từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đến nay và định hướng đến năm 2020 của tỉnh An Giang như sau:
PHẦN THỨ NHẤT
TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
CÔNG TÁC DÂN TỘC
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:
An Giang là một tỉnh miền Tây Nam bộ, thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh, diện tích tự nhiên 353.676 ha, trong đó có 297.872 ha đất sản xuất nông nghiệp; là tỉnh vừa có đồng bằng, vừa có núi và có đường biên giới dài gần 100 km, giáp với 02 tỉnh Tà - Keo và Kan - Đan của Vương quốc Campuchia; có 02 cửa khẩu quốc tế là Xuân Tô (Tịnh Biên), Vĩnh Xương (Tân Châu), 01 cửa khẩu quốc gia là Khánh Bình (An Phú).
Về địa giới hành chính: Tỉnh có 08 huyện, 02 thị xã, 01 thành phố và 154 xã, phường, thị trấn. Trong đó có 18 xã biên giới, 35 xã khó khăn theo Quyết định 30/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và hiện có 12 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư Chương trình 135 giai đoạn II.
Dân số toàn tỉnh (năm 2008) là 2.233.203 người, với 460.215 hộ, trong đó có 114.632 người dân tộc thiểu số, chiếm tỉ lệ 5,14% dân số toàn tỉnh. Có 03 dân tộc thiểu số có dân số khá đông là Khmer, Hoa, Chăm cùng chung sống lâu đời. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa tỉnh nhà.
Dân tộc Khmer toàn tỉnh có 86.592 người, chiếm tỉ lệ 4% dân số toàn tỉnh, sống tập trung nhiều nhất ở 2 huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên (trên 80.000 người), số còn lại sống rải rác ở một số huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú. Đồng bào dân tộc Khmer ở An Giang theo Phật giáo Nam tông, sống chủ yếu bằng nông nghiệp và chăn nuôi gia đình. Trong kháng chiến, huyện Tri Tôn, Tịnh Biên là căn cứ địa Cách mạng, chịu nhiều tàn phá do chiến tranh, đời sống một bộ phận đồng bào Khmer còn gặp nhiều khó khăn.
Dân tộc Hoa có 14.089 người, chiếm tỉ lệ 0,63% dân số toàn tỉnh, đa số theo đạo Phật, sống xen kẻ với người Kinh trong thành phố, thị xã, thị trấn. Tập trung nhiều tại TP. Long Xuyên, TX. Châu Đốc, huyện Tân Châu, Tri Tôn. Đa số làm nghề buôn bán, sản xuất kinh doanh. Thế mạnh của người Hoa ở An Giang là thương mại và rất chuyên sâu, kế tục những ngành nghề truyền thống cha truyền con nối cùng những bí quyết riêng của họ tộc.
Dân tộc Chăm có 13.722 người, chiếm tỉ lệ gần 0,61% dân số toàn tỉnh, sống tập trung nhiều nhất ở 3 huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân; số còn lại sống rải rác ở các huyện Châu Phú, Châu Thành; hầu hết theo đạo Hồi (Islam). Trước đây lao động nam chuyên nghề chài lưới và mua bán nông sản qui mô nhỏ, phụ nữ dệt vải, thêu đan, nay chỉ còn một số ít hộ còn chài lưới, dệt vải, đa số chuyển sang mua bán nhỏ, chăn nuôi và một số gia đình làm nông nghiệp.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đồng bào dân tộc thiểu số đoàn kết, gắn bó với cộng đồng dân cư, góp phần cùng đảng bộ, quân, dân tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, chính trị trên địa bàn.
II. TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN TỘC:
Trong thời kỳ đất nước đổi mới, Đảng, Nhà nước ta có nhiều chủ trương chính sách về công tác dân tộc như Nghị quyết số 22/NQ-TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VI) về công tác ở vùng đồng bào Khmer, Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 8/11/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) về tăng cường công tác người Hoa trong tình hình mới, Chỉ thị 06/2004/CT- TTg ngày 18/2/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh phát triển khinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh đối với đồng bào Chăm trong tình hình mới.
Đặc biệt từ khi có Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng quán triệt trong nội bộ, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, phổ biến đến các vị chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo trên địa bàn tỉnh về chính sách dân tộc, nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, trách nhiệm công dân, tạo sự đồng thuận, đoàn kết giữa đồng bào các dân tộc, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chương trình, dự án, các biện pháp tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, đã góp phần phát triển các mặt đời sống kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh - quốc phòng, được thể hiện trên các mặt sau đây:
1. Về phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo:
Trong thời gian qua, Tỉnh đã tập trung và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của Trung ương, ngân sách tỉnh và các nguồn lực khác trong việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã vùng sâu, vùng xa như:
Chương trình 135 (1999 - 2010) với tổng giá trị đầu tư là 163 tỉ đồng, với 305 công trình gồm giao thông, điện, hệ thống cấp nước, thủy lợi, chợ, trường học, trạm y tế và các công trình khác. Chương trình Dân tộc thực hiện từ năm 2001-2003 nhằm trợ giúp các hộ đồng bào dân tộc Khmer nghèo không đất hoặc thiếu đất sản xuất, đã hỗ trợ cho 4.580 hộ với 2.471 ha đất sản xuất, hỗ trợ vốn chăn nuôi 2.000 con bò, xây dựng 1.800 căn nhà tình thương và hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với tổng vốn đầu tư 150 tỷ đồng. Thực hiện Quyết định 134 (năm 2004 - 2008), tỉnh đã đầu tư xây dựng 5.420 căn nhà cho đồng bào dân tộc nghèo, 54 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung cho đồng bào dân tộc thiểu số đời sống khó khăn với tổng kinh phí 51 tỷ đồng. Tỉnh đang triển khai Đề án 881 của UBND tỉnh thực hiện Quyết định 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở với tổng kinh phí khoảng 161 tỷ, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.432 hộ, vốn kinh phí đầu tư gần 40 tỷ đồng. Tỉnh cũng đang triển khai Đề án 25 theo Quyết định 74/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn từ nay đến năm 2010, với tổng số vốn đầu tư trên 111 tỷ đồng. Đầu năm 2007, tỉnh đã đầu tư giải quyết bức xúc về cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đời sống, đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc Khmer tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên với kinh phí là 14 tỷ đồng.
Ngoài ra, tỉnh còn thực hiện các chính sách hỗ trợ khác như: Hỗ trợ vay vốn sản xuất ưu đãi cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 32/2007/QĐ-TTg; thực hiện chính sách định canh, định cư cho 100 hộ đồng bào dân tộc Khmer không có đất ở theo Quyết định 33/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Đầu năm 2007, tỉnh được Trung ương đầu tư sửa chữa, nâng cấp 10 lò hỏa táng trong các chùa Khmer tại các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Thành và Thoại Sơn.
Nhìn chung, đa số bà con đồng bào dân tộc Khmer, Chăm thuộc diện các chương trình, dự án đều được nhận đất canh tác, vay vốn, hỗ trợ sản xuất, cố gắng làm ăn, nhiều hộ đã từng bước ổn định cuộc sống.
2. Về văn hoá - xã hội:
- Đối với hệ thống giáo dục:
+ Tỉnh có 01 Trường phổ thông Dân tộc nội trú có 2 cấp học: Trung học cơ sở và Trung học phổ thông dành cho học sinh dân tộc Khmer, đặt tại thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, quy mô đào tạo 700 học sinh; 01 Trường trung học cơ sở Dân tộc bán trú, đặt tại thị trấn Chi Lăng, huyện Tịnh Biên, qui mô đào tạo 400 học sinh. Các học sinh Trung học phổ thông dân tộc nội trú và Trung học cơ sở bán trú đều được học chữ Khmer trong chương trình chính khóa.
Việc dạy song ngữ tiếng Việt - Khmer ở bậc tiểu học được thực hiện ở 20 trường, 149 lớp với tổng số 3.964 học sinh. Tổng số học sinh dân tộc Khmer năm học 2007 - 2008 là 19.159 và giáo viên người dân tộc thiểu số là 373 giáo viên.
+ Vùng có đồng bào dân tộc Chăm, hiện có 02 trường Trung học phổ thông, 04 trường Trung học cơ sở, 13 trường tiểu học - mẫu giáo (có 2 trường dạy song ngữ Chăm-Việt);
Học sinh người dân tộc Khmer, Chăm ở các trường phổ thông đều được miễn học phí. Từ năm học 2007-2008 đến năm học 2009-2010, học sinh Khmer, Chăm ở vùng đặc biệt khó khăn được xét tuyển vào hệ dự bị đại học là 184 học sinh, hệ cử tuyển đại học, cao đẳng là 310 học sinh.
Tỉnh còn tổ chức các lớp Y sĩ dành cho học sinh người dân tộc Khmer, Chăm, tổng cộng 50 học viên; tỉnh chi trả kinh phí đào tạo, hỗ trợ tiền ăn, sau khi tốt nghiệp đều được bố trí việc làm.
+ Đối với đồng bào người Hoa, do kinh tế gia đình ổn định, nên người Hoa có điều kiện và rất quan tâm đến việc học tập của con em mình. Hầu hết trẻ em trong độ tuổi đều đến trường. Việc học chữ Hoa được duy trì khá tốt ở một số địa phương có đông người Hoa, như Trung tâm Hoa ngữ ở TP.Long Xuyên và thị xã Châu Đốc. Mỗi khóa học, có khoảng 10 lớp với bình quân 140 học viên/khóa học.
- Đối với đào tạo nghề: Đến nay, toàn tỉnh có 33 cơ sở dạy nghề gồm 01 Trường Cao đẳng nghề, 03 Trường Trung cấp nghề, 10 Trung tâm dạy nghề và 19 cơ sở dạy nghề. Riêng đối với đồng bào dân tộc Khmer, tỉnh đã có quyết định phê duyệt Đề án thành lập Trường trung cấp nghề Dân tộc nội trú, quy mô 800 học viên, đào tạo 9 nghề. Từ năm 2006 đến nay, đã có 1.085 thanh niên dân tộc thiểu số được đào tạo nghề, trong đó chủ yếu là các nghề phổ thông. Sau khóa học, một số lao động được tư vấn giới thiệu việc làm ra ngoài tỉnh hoặc xuất khẩu lao động, số còn lại tham gia lao động tại địa phương.
- Về văn hóa, thông tin: Đài PTTH tỉnh có chương trình phát thanh và truyền hình tiếng dân tộc Khmer 02 buổi trong ngày. Tất cả các xã trong vùng đồng bào dân tộc đều được trang bị loa truyền thanh hoạt động 2 buổi trong ngày. Công tác thông tin, cổ động qua hình thức phát thanh, pano, áp phích ở vùng đồng bào dân tộc đều được phát và in bằng 02 thứ tiếng Việt và Khmer. Việc cấp phát báo, tạp chí miễn phí theo Quyết định 975/QĐ-TTg ngày 20/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện trên địa bàn tỉnh, hàng năm cấp phát theo các địa chỉ quy định với 19 đầu sách báo, tạp chí.
- Đối với hoạt động văn hóa, thể thao, văn nghệ truyền thống: Các đội văn nghệ của dân tộc Chăm, Hoa, Khmer đều hoạt động khá tốt. Trong những dịp lễ hội dân tộc như Tết Chôl-Chnăm-Thmây, Đônta của đồng bào Khmer, tháng chay Ramadan, đón tết Roya của đồng bào Chăm, tết Nguyên Đán của đồng bào Hoa đều được Lãnh đạo tỉnh, các cấp ngành quan tâm tạo điều kiện cho đồng bào tổ chức lễ theo phong tục cổ truyền với sinh khí vui tươi, phấn khởi, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Nhân dịp lễ tết, tỉnh đều tổ chức đoàn thăm hỏi, tặng quà cho các chùa, thánh đường, gia đình chính sách, các vị chức sắc, cán bộ tiêu biểu người dân tộc thiểu số.
+ Trong lễ Chôl-Chnăm-Thmây, Đônta hàng năm, 02 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên luân phiên tổ chức Lễ hội đua bò Bảy Núi truyền thống, tổ chức "Ngày hội Văn hóa dân tộc Khmer tỉnh An Giang" tạo không khí vui tươi, phấn khởi cho đồng bào đón tết. Lễ hội đã thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan.
+ Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao truyền thống của đồng bào Hoa như múa Lân Sư Rồng trong các dịp lễ hội Kỳ yên, thi đấu bóng rổ, cầu lông, đá cầu,.... được cộng đồng người Hoa hưởng ứng rất tích cực. Đồng bào Hoa luôn có ý thức giữ gìn, bảo tồn phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc; những năm qua, người Hoa trong và ngoài tỉnh đã vận động, quyên góp kinh phí xây dựng, tôn tạo các công trình chùa miếu như Quan Đế miếu, Bắc Đế miếu ở TP. Long Xuyên, Quan đế miếu ở Tân Châu, người Hoa ở Châu Đốc mua lại 05 căn nhà dự kiến làm trụ sở Hội tương tế…
+ Về văn hóa, văn nghệ truyền thống của dân tộc Chăm cũng được duy trì và phát triển. Lễ hội văn hóa thể thao dân tộc Chăm được nâng lên thành lễ hội chính thức của tỉnh, được luân phiên tổ chức. Hàng năm, tỉnh còn tổ chức Liên hoan mùa nước nổi với chương trình biểu diễn văn hoá nghệ thuật, các trò chơi dân gian, các môn thể thao tạo sự giao lưu giữa thanh niên dân tộc Chăm và Kinh, buổi liên hoan thật sự gây ấn tượng cho nhân dân trong vùng và khách du lịch.
Trong cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đến nay có trên 12.000 hộ dân tộc được công nhận “Gia đình văn hóa”, gần 50 khóm, ấp có đông đồng bao dân tộc được công nhận “Khu dân cư tiên tiến”, “Ấp văn hóa”.
- Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho vùng đồng bào dân tộc: Trong 8 huyện có người dân tộc, hệ thống y tế cơ sở được kiện toàn từ huyện xuống tận khóm ấp. Đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã thụ hưởng Chương trình 135 thuộc diện nghèo và cận nghèo đều được khám chữa bệnh miễn phí. Công tác chăm sóc bảo vệ bà mẹ và dân số kế hoạch hóa gia đình trong đồng bào dân tộc những năm gần đây có nhiều tiến bộ, số người sinh con thứ 3 giảm; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xấp xỉ 30%. Các dịch bệnh nguy hiểm đã được kiểm soát và đẩy lùi.
3. Về hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tổ chức hội đoàn:
Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được tỉnh đặc biệt quan tâm và thực hiện tốt. Các địa phương luôn tôn trọng sự tự do tín ngưỡng, đồng thời hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tôn giáo đúng pháp luật.
- Đồng bào Khmer hầu hết theo Phật giáo (hệ phái Nam tông), rất tôn trọng sư sãi, xem chùa vừa là nơi sinh hoạt tôn giáo, vừa là nơi sinh hoạt văn hoá tinh thần. Toàn tỉnh có 65 chùa Khmer, trên 600 sư sãi, các chùa Khmer trong tỉnh phát huy tốt việc tu học, hành đạo theo đúng phương châm “Đạo pháp- Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”, kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, đoàn kết tốt giữa người theo đạo và người không theo đạo, cùng chung sức xây dựng quê hương, xóm làng.
- Đồng bào Hoa đa số theo đạo Phật (Phật giáo Bắc tông) và thờ cúng đa thần, tín ngưỡng của bà con người Hoa mang đậm bản sắc truyền thống tín ngưỡng dân gian qua việc thờ cúng Quan thánh Đế quân, bà Thiên Hậu, ông Bổn,… với 27 chùa miếu. Đến nay, toàn tỉnh đã vận động thành lập được 04 Hội tương tế người Hoa ở thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc, huyện Tân Châu và thị trấn Cái Dầu (huyện Châu Phú).
- Đồng bào Chăm theo đạo Hồi (Islam), thực hiện nghiêm túc giáo luật của Hồi giáo chính thống, có niềm tin vào Thánh Ala, Đấng tiên tri Mohamad và kinh Quran. Toàn tỉnh có 12 thánh đường và 15 tiểu thánh đường, có Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo. Cộng đồng người Chăm ở An Giang có mối quan hệ gần gũi với với cộng đồng Hồi giáo Đông Nam Á, đặc biệt là đối với người Hồi giáo ở Malaysia. Tỉnh đã mở lớp bồi dưỡng giáo lý cho Tuôl (Thầy dạy tiếng chăm), triển khai pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo, cho in và phát hành trên 500 cuốn kinh, sách giáo lý, xây dựng 7 phòng đọc sách, 14 tủ sách với 6.400 bản sách, phục vụ nhu cầu học hỏi, nâng cao dân trí của đồng bào Chăm.
4. Về an ninh - quốc phòng:
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số luôn ổn định, ý thức chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước không ngừng được nâng lên, góp phần đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các âm mưu của các thế lực thù địch hầu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các vụ khiếu nại của đồng bào dân tộc được các cấp, ngành quan tâm giải quyết đúng theo quy định của pháp luật. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, đấu tranh phòng chống tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng tổ, ấp vùng đồng bào dân tộc ngày càng vững chắc ; làm tốt công tác đối ngoại với chính quyền các tỉnh giáp biên giới Việt Nam - Campuchia xây dựng biên giới hòa bình, đoàn kết, hữu nghị.
Nhìn chung, các cấp ủy Đảng và chính quyền thực hiện tốt chủ trương đại đoàn kết dân tộc, thực hiện đúng đắn các chính sách dân tộc, nên cộng đồng các dân tộc luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đoàn kết gắn bó trong cộng đồng các dân tộc.
5. Về xây dựng hệ thống chính trị cơ sở:
Để kiện toàn hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, công tác đào tạo và sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số cũng được quan tâm thực hiện. Hiện nay, số lượng đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào cơ quan nhà nước, hệ thống chính trị của tỉnh ngày càng tăng, theo thống kê năm 2008, toàn tỉnh hiện có 772 cán bộ công chức (Khmer 390, Hoa 366, Chăm 16), 843 đảng viên dân tộc thiểu số, 181 đại biểu Hội đồng Nhân dân (2004-2009); 13.565 đoàn viên thanh niên, 4.170 hội viên Hội liên hiệp Thanh niên, 13.620 hội viên Hội liên hiệp Phụ nữ, 5.502 hội viên Hội Nông dân và 276 hội viên Hội Cựu chiến binh người dân tộc thiểu số.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC:
Trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh luôn giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, chung lưng đấu cật khai hoang lập ấp, hình thành xóm làng; đặc biệt là đoàn kết chống lại áp bức bóc lột, ách cai trị, đô hộ của thực dân, đế quốc và bọn tay sai; đã có nhiều đồng bào Khmer tham gia vào các phong trào cách mạng như bà Néang Hiền ở xã An Tức, huyện Tri Tôn, là người phụ nữ Khmer đầu tiên dẫn quân đánh đuổi bọn Khmer-Sơrây nổi dậy năm 1961 ở Bảy núi, diệt ác ôn chỉ điểm, thuyết phục sãi cả vận động lực lượng con em Khmer tham gia lực lượng cách mạng. Trong đợt tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân, đã có 60 sư sãi, à cha cùng lực lượng quần chúng nổi dậy bao vây và đánh chiếm đồn Sóc-Triết, đồn Chè-Đây ở xã Cô-Tô; và đã có những tấm gương hy sinh anh dũng, ngã xuống vì mảnh đất quê hương An Giang tươi đẹp, điển hình như Néang Nghét, người con gái Khmer bất khuất xã Ô Lâm, tham gia cách mạng và bị địch bắt tra tấn dã man vào năm 1962, sau đó hy sinh lúc tròn 20 tuổi, chị được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Tỉnh đã tổ chức phát động toàn Đảng, toàn dân học tập tấm gương hy sinh oanh liệt của chị. Bên cạnh đó, đồng bào dân tộc Hoa, Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang cũng có những đóng góp đáng trân trọng. Nhiều gia đình có con cháu tham gia cách mạng, nuôi chứa cán bộ, góp công sức, tiền của cho cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương kháng chiến.
Trong thời kỳ đổi mới, có những tấm gương nổi lên từ phong trào lao động sản xuất, góp phần xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, thể hiện qua các gương điển hình như:
Trong đồng bào Khmer, có Hòa thượng Chau Cắt, xã Núi Voi, Tịnh Biên, vận động nhân dân xây dựng đường giao thông và kênh Mỹ Á; Thượng tọa Chau Sóc Khênh (Tịnh Biên) vận động nhân dân xây dựng đường giao thông từ Tỉnh lộ 948 vào phum Sà Rất; nông dân sản xuất giỏi có Neáng Phát (Tri Tôn) từ một gia đình không đủ ăn vươn lên trở thành hộ có thành tích trong sản xuất, truyền đạt kinh nghiệm cho bà con, góp phần xóa đói giảm nghèo ở địa phương; ông Chau Sơn Sóc Kunh (Tịnh Biên) với thành tích vận động nhiều người tham gia khôi phục giống lúa Nèang Nhen đặc sản phục vụ cho xuất khẩu và du lịch.
Góp phần khôi phục ngành nghề đặc thù tại địa bàn đồng bào dân tộc Chăm có ông AlyDal (An Phú) vận động đồng bào Chăm khôi phục nghề dệt truyền thống, phát huy bản sắc dân tộc, phục vụ du khách tham quan làng Chăm; ông Sa Lay Mal, ở ấp Búng Lớn, xã Nhơn Hội, An Phú, được tặng nhiều Giấy khen về nông dân sản xuất kinh doanh giỏi; Bà Nguyễn Thị Kim Chi, Chủ nhiệm Hợp tác xã thêu may Kim Chi TP. Long Xuyên, là doanh nhân giỏi, góp phần giải quyết công ăn việc cho nhiều người lao động; ông ISMAIL ấp Phũm Soài, huyện Tân Châu, có nhiều đóng góp trong phong trào xây dựng đoàn kết dân tộc qua 02 thời kỳ kháng chiến đến nay.
Ông Võ Thanh Khiết - Bí thư Tỉnh ủy AG phát biểu chỉ đạo Đại hội
Doanh nhân thành đạt người Hoa có ông Nguyễn Văn Lý, Giám đốc Công ty TNHH Nông Gia II (huyện Tri Tôn), đã tuyển dụng trên 1.200 lao động nữ dân tộc Khmer, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc; ông Lư Hỷ, Chủ tịch Hội Tương tế người Hoa, TP.Long Xuyên, là thành viên sáng lập Hội Tương tế và có nhiều đóng góp to lớn trong công tác người Hoa suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đến thời kỳ đổi mới ngày nay; ông Quách Sĩ Đức, huyện Châu Thành, đóng góp trong việc xây dựng Trường học, làm cầu, đường ở địa phương.
Đặc biệt là thông qua các tổ chức, đại diện tôn giáo như Ban Đại diện Phật giáo, Ban Đại diện cộng đồng Hồi giáo, Hội Tương tế người Hoa và các vị tiêu biểu trong tôn giáo, dân tộc đã góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số chấp hành phát luật, làm tốt nghĩa vụ công dân, cùng nhau phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự xã hội tại địa phương.
Qua các phong trào hành động cách mạng, xuất hiện hàng ngàn gương điển hình tiêu biểu của đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh có thành tích xuất sắc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, được Đảng, Nhà nước biểu dương và khen tặng trên 2.000 huân chương, huy chương, bằng khen Thủ tướng Chính phủ,…
IV. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CHUNG:
Qua việc tích cực thực hiện các Chương trình chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đã đem lại hiệu quả rõ rệt trong việc phát triển khinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc. Các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã góp phần tạo thuận lợi trong việc đi lại, học hành, trị bệnh, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần, mở rộng giao lưu mua bán giữa các vùng. Nhiều hộ nghèo dân tộc thiểu số đã có nhà ở ổn định để tập trung vào việc chăn nuôi, sản xuất tăng thu nhập từng bước vươn lên thoát nghèo.
Phần lớn các dự án đầu tư, phát triển sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Việc thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án khác ở địa bàn cũng được quan tâm thực hiện khá tốt.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc, miền núi được duy trì ổn định. Hiệu quả về kinh tế, xã hội, đã góp phần củng cố, hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở, nâng cao lòng tin của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình thực hiện công tác dân tộc vẫn còn những mặt hạn chế như sau:
- Mặc dù tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục phát triển, các chương trình mục tiêu quốc gia đem lại hiệu quả thiết thực, nhưng số hộ nghèo trong đồng bào dân tộc trong tỉnh vẫn còn cao, toàn tỉnh còn có 5.722 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 18,82% so với hộ nghèo toàn tỉnh. Nhiều xã tuy đạt kết quả tích cực trong xóa đói, giảm nghèo nhưng còn lúng túng trong giải pháp vươn lên khá, giàu. Ở những nơi chưa đảm bảo tính bền vững thì tình trạng tái nghèo vẫn còn là một nguy cơ tiềm ẩn.
- Việc phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc còn hạn chế, có nơi chưa được quan tâm đúng mức, một số loại hình văn hóa, nghệ thuật của đồng bào dân tộc có nguy cơ bị mai một. Việc học tập nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đối với hộ nghèo còn khó khăn.
- Việc xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở vùng đồng bào dân tộc, công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ người dân tộc có nơi chưa được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào cơ quan nhà nước, đoàn thể các cấp chưa nhiều. Công tác phát triển Đảng viên trong lực lượng cán bộ dân tộc thiểu số còn ít.
Từ những kết quả đạt được, những hạn chế tồn tại trong thời gian qua, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm như sau:
Một là, những nơi cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc; quan tâm chỉ đạo thường xuyên, phối hợp đồng bộ, phát huy vai trò của Mặt trận, đoàn thể thì nơi đó thực hiện công tác dân tộc đạt hiệu quả.
Hai là, công tác tuyên truyền phải thiết thực; giải quyết thỏa đáng những vấn đề bức xúc, gắn quyền lợi với nghĩa vụ; xem lợi ích của cộng đồng và xã hội là trên hết, tạo sự đồng thuận để đồng bào các dân tộc tích cực tham gia thì các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mới thực sự đi vào cuộc sống.
Ba là, biết khơi dậy truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bó trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước của đồng bào dân tộc thiểu số, làm lực đẩy để đồng bào tích cực hưởng ứng và tham gia các phong trào thi đua yêu nước.
Bốn là, phát động phong trào thi đua trong đồng bào dân tộc thiểu số cần phải cụ thể, thiết thực; thường xuyên sơ, tổng kết, kịp thời phát huy, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến, xuất sắc trong đồng bào dân tộc; để từ đó, huy động được cộng đồng các dân tộc cùng tích cực tham gia, thực hiện hoàn thành các mục tiêu đề ra.
PHẦN THỨ HAI
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CẦN TẬP TRUNG THỰC HIỆN
TỪ NAY ĐẾN NĂM 2015 VÀ ĐỊNH HƯỚNG NĂM 2020
I. DỰ BÁO TÌNH HÌNH:
Trước thực trạng về kinh tế, đời sống văn hóa, xã hội với những thuận lợi, khó khăn, thách thức trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập; tỉnh An Giang đã và đang cố gắng tích cực phát huy lợi thế, ra sức phấn đấu thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), tập trung phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn thiện, tăng cường an ninh quốc phòng, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.
Qua thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia đã phát huy tác dụng, đời sống của người dân tộc thiểu số ngày càng được nâng lên, tuy vẫn còn những khó khăn nhất định do trình độ dân trí thấp, nhận thức về pháp luật, tập quán sản xuất, sinh hoạt còn hạn chế. Nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số còn muốn được tiếp tục hỗ trợ nhà ở, đất ở, được tiếp cận các nguồn vốn để khôi phục ngành nghề truyền thống, phát triển thêm ngành nghề mới để giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập ổn định cuộc sống.
Là một tỉnh giáp biên giới nước bạn Campuchia, bên cạnh những thuận lợi trong việc giao thương mua bán, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc tại vùng biên giới, nơi đây cũng là địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch luôn lợi dụng để gây mất ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn xung yếu, trọng điểm, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị và đoàn kết với nước bạn cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng.
II. MỤC TIÊU CHỦ YẾU VỀ CÔNG TÁC DÂN TỘC TỪ NAY ĐẾN NĂM 2015 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2020:
Để phát huy thành tựu đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác dân tộc, cần tiếp tục tập trung thực hiện đồng bộ các công việc sau:
1. Tiếp tục tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các chương trình, dự án đầu tư góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các dân tộc trong cộng đồng.
- Phấn đấu đến năm 2015 giảm tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc dưới 12% (năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số là 18,82% so với số hộ nghèo toàn tỉnh); đến năm 2020 còn dưới 5%.
- Đến năm 2015 có 90% hộ dân tộc có điện sinh hoạt; trên 80% hộ sử dụng nước sạch; cơ bản không còn nhà siêu vẹo tạm bợ. Đến năm 2020, có 95% hộ đồng bào dân tộc có điện sinh hoạt và 85% hộ sử dụng nước sạch.
2. Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào dân tộc; phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ trẻ em dân tộc trong độ tuổi (6 - 14 tuổi) đến trường đạt từ 87% trở lên, đến năm 2020 đạt trên 90%; đẩy mạnh việc dạy và học chữ Khmer, Hoa, Chăm; tạo điều kiện để hầu hết đồng bào dân tộc được chăm sóc sức khỏe tốt; hạn chế đến mức thấp nhất các loại dịch bệnh nguy hiểm; phấn đấu đến năm 2015 các trạm y tế xã có đông đồng bào dân tộc đều có bác sỹ phục vụ.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh ở các xã, thị trấn vùng dân tộc; nâng cao vị trí vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia thực hiện tốt chính sách dân tộc.
4. Giữ vững ổn định chính trị trật tự an toàn xã hội ở vùng đồng bào dân tộc, nhất là ở những địa bàn xung yếu, trọng điểm, làm tốt công tác đối ngoại với chính quyền nước bạn Campuchia, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị và đoàn kết.
III. NHỮNG NHIỆM VỤ VÀ BIỆN PHÁP CHỦ YẾU:
1. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá IX) về công tác dân tộc, Chỉ thị số 68-CT/TW về công tác ở vùng đồng bào Khmer, Chỉ thị số 62-CT/TW về tăng cường công tác người Hoa, Chỉ thị 06/2004/CT-TTg về công tác đối với đồng bào Chăm; tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc và công tác dân tộc để đồng bào dân tộc nắm rõ đường lối nhất quán của Đảng, Nhà nước là “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”.
2. Tập trung tổ chức quản lý, chỉ đạo phối hợp, lồng ghép các chương trình, dự án, nhằm huy động nhiều nguồn lực để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc; làm tốt công tác giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào dân tộc Khmer, Chăm. Tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách an sinh xã hội vùng đồng bào dân tộc như Quyết định số 32 về việc cho vay vốn phát triển sản xuất, Quyết định 74 về hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, đào tạo nghề đối với đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, Quyết định 167 về chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo. Có các chính sách khuyến khích, mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, phát huy kinh nghiệm, vốn liếng, tay nghề, tôn vinh danh nhân trong đồng bào Hoa,… Chú ý đầu tư phát triển ngành nghề truyền thống của đồng bào Khmer, Chăm, khuyến khích hợp tác đầu tư trong các lãnh vực sản xuất, thương mại dịch vụ nhằm ổn định cuộc sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, nâng cao trình độ dân trí trong đồng bào dân tộc. Có chủ trương đầu tư mạnh hơn cho công tác giáo dục đào tạo con em đồng bào dân tộc thiểu số, tiếp tục thực hiện chính sách cử tuyển, dự bị đại học cho học sinh người dân tộc Khmer, Chăm; tiếp tục đề xuất Trung ương mở rộng đối tượng cử tuyển con em người dân tộc ngoài vùng đặc biệt khó khăn (xã thụ hưởng Chương trình 135); xây dựng Trường trung học cơ sở Dân tộc nội trú cho dân tộc Chăm tại thị xã Châu Đốc. Có kế hoạch hỗ trợ để đồng bào Hoa có Trường dạy Hoa ngữ, song ngữ (Hoa - Việt). Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên dân tộc Hoa, Chăm. Xây dựng mới Trường THPT dân tộc nội trú của tỉnh ở thành phố Long Xuyên, Trường THCS dân tộc nội trú Tịnh Biên, Trung tâm dạy nghề người dân tộc cấp tỉnh.
Có kế hoạch hỗ trợ một phần kinh phí để khôi phục các loại hình thể thao, văn hoá, văn nghệ truyền thống của đồng bào dân tộc, tạo ra sự đa dạng phong phú về nội dung và hình thức trong các hoạt động lễ hội hàng năm của tỉnh.
Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia ở vùng đồng bào dân tộc, vận động thực hiện hiệu quả chương trình dân tộc với kế hoạch gia đình, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, đảm bảo vệ sinh môi trường.
4. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ là người dân tộc. Tăng cường cán bộ công tác ở các địa bàn có đông đồng bào dân tộc, trước hết là đội ngũ cán bộ chủ chốt các xã; đẩy mạnh phát triển Đảng viên, giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ khoa học kỹ thuật người dân tộc. Kiện toàn bộ máy và nâng cao chất lượng hoạt động của cán bộ phụ trách công tác dân tộc, đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công tác.
5. Phát động mạnh mẽ các phong trào thi đua yêu nước, xem trọng và phát huy gương người tốt việc tốt, gắn với các cuộc vận động giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; chú trọng khai thác sáng kiến kinh nghiệm của các tổ chức, cá nhân có thành tích nổi bật, nhân điển hình tiên tiến, đề cao ý thức tự lực tự cường, khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại trong đồng bào dân tộc.
6. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân ở các vùng dân tộc ngày càng vững mạnh, nắm chắc mọi diễn biến, tình hình, kịp thời phát hiện ngăn chặn và chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, ý thức chấp hành pháp luật, không để xảy ra điểm nóng về an ninh trật tự ở vùng dân tộc.
Nâng cao vai trò của Mặt trận và các đoàn thể, làm tốt công tác vận động, tranh thủ và phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Quan tâm nhiều hơn đối với lực lượng sư sãi, à cha, giáo cả tạo mối qua hệ mật thiết giữa nhà chùa, thánh đường với chính quyền, mặt trận và người dân trong vùng đồng bào dân tộc để thực hiện tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Ban Dân tộc tỉnh tham mưu giúp UBND tỉnh tổ chức triển khai quán triệt, cụ thể hóa mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ công tác dân tộc phù hợp từng địa phương, từng vùng. Phối hợp với các đơn vị, sở ban ngành các cấp chỉ đạo kiểm tra, giám sát và tổ chức thực hiện tốt chính sách dân tộc.
Hàng năm có báo cáo; đến năm 2015 tổ chức hội nghị sơ kết và đến năm 2019 tổ chức tổng kết trong dịp Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh An Giang lần thứ II -2019.
2. UBND các huyện, thị xã, thành phố phối hợp cùng Ban Dân tộc và các sở, ngành tỉnh có liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao và tình hình thực tế của đơn vị địa phương mình cụ thể hóa các nhiệm vụ để chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chương trình, dự án, kế hoạch đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương theo từng giai đoạn nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
3. Đề nghị Ban Dân vận, Ủy ban Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể phối hợp với Ban Dân tộc và các Sở, ngành có liên quan thực hiện tốt mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ mà Đại hội đã đề ra.
Trên đây là dự thảo báo cáo tổng kết các phong trào thi đua yêu nước và kết quả thực hiện chính sách dân tộc của tỉnh An Giang thời gian qua, phương hướng nhiệm vụ công tác dân tộc trong thời gian tới.
Đại hội kêu gọi các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị và đồng bào các dân tộc hăng hái thi đua thực hiện thắng lợi mục tiêu, dân chủ, bình đẳng, đoàn kết, đổi mới và phát triển./.